Giới thiệu
Vitamin C là một chất dinh dưỡng cần thiết, có dạng tinh thể trắng và tan tốt trong nước. Đây là một axit hữu cơ, các muối của nó được gọi là "ascorbat".
Vitamin C tham gia vào khoảng 15.000 phản ứng chuyển hóa trong cơ thể. Ascorbic acid là một chất cần thiết cho quá trình oxi hóa chất béo và phần của quá trình chuyển hóa axit amin. Đặc biệt, các protein trong ma trận mô liên kết không thể được kết nối mà không có vitamin C.
Ascorbic acid cũng phục vụ như một yếu tố cộng sinh cho tổng hợp một số hormone và neurotransmitter. Việc tổng hợp norepinephrine, adrenaline, dopamine và serotonin phụ thuộc vào vitamin C. Do đó, vitamin C có tác dụng cân bằng sự cân xứng tâm lý và cho phép cơ thể phản ứng phù hợp với căng thẳng. Hormon thyroxin, được sản xuất ở tuyến giáp, cũng không thể được cung cấp nếu không có chất dinh dưỡng cần thiết này.
Hệ miễn dịch cũng phụ thuộc vào chất dinh dưỡng cần thiết này, đặc biệt là trong quá trình nhiễm trùng nặng. Việc hấp thụ kẽm và sắt cũng như khử độc hóa chất và kim loại nặng (amalgam) cũng cần có vitamin C.
Tác dụng bảo vệ khỏi oxy hóa
Sự bảo vệ khỏi quá trình oxy hóa phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của một chất để hoạt động như một chất hấp thụ gốc (free radical scavenger). Các gốc tự do, chủ yếu là các hợp chất oxi chưa bão hòa như H2O2, rất hung hăng và thích tấn công các lớp lipid trong màng tế bào. Với nồng độ gốc tự do đủ cao, điều này dẫn đến suy yếu của tế bào bị ảnh hưởng.
Chất chống oxi hóa có khả năng trung hòa những gốc tự do này bằng cách trao đổi một electron. Vitamin C hoạt động như một enzym chung với enzyme supxeroxidase. Việc loại bỏ các chất thải chuyển hóa oxi hóa bảo vệ tế bào khỏi căng thẳng oxi hóa. Việc giảm nồng độ các chất có khả năng tấn công cũng có thể được coi là một biện pháp phòng ngừa ung thư. Một hiệu ứng khác thuận lợi là hỗ trợ ma trận mô liên kết: Mạng lưới càng mạnh mẽ và chặt chẽ hơn, cơ hội cho các tế bào ung thư lan tỏa càng ít.
Gốc tự do cũng có khả năng xâm nhập tới nhân tế bào và gây thay đổi di truyền, chỉ rõ về các bệnh ung thư. Hiện nay, căng thẳng oxi hóa được xem là một phần không thể thiếu của quá trình ung thư.
Các bệnh khác liên quan đến quá trình phân hủy oxy, bao gồm hội chứng mệt mỏi, các tế bào sợi mô liên kết (bệnh Morbus Boeck), bệnh Alzheimer, các bệnh dị ứng và bệnh tự miễn, động mạch cứng, hen suyễn, bệnh Crohn, viêm đại tràng, tổn thương gan, cùng bệnh xơ cứng của não và bệnh Parkinson.
Vitamin C có khả năng bảo vệ ADN khỏi tổn thương oxy hóa. Các đặc điểm chống oxi hóa của nó có lợi cho hệ thống miễn dịch cả tế bào và dịch cơ thể. Một số enzyme chứa nhiều axit amin hữu cơ chứa lưu huỳnh được bảo vệ khỏi oxi hóa nhờ sự cộng tác của vitamin C. Hiệu ứng này dựa trên quá trình phục hồi của peptide glutathion, cần thiết để bảo vệ các enzyme này trong các hồng cầu. Các yếu tố khác của cơ chế bảo vệ gồm axit axit amin, axit folic và các vitamin B1 và B2.
Việc bảo vệ oxi hóa rộng lớn này đồng thời giữ cho cơ thể khỏe mạnh và làm chậm quá trình lão hóa.
Phản ứng hydroxy hóa
Trong quá trình hydroxy hóa, dạng oxi hóa của vitamin C, Dehydroascorbinsäure, được sử dụng như một chất chấp nhận electron. Trong vai trò này, nó là một yếu tố cộng sinh trong quá trình sinh tổng hợp collagen. Trong quá trình này, các axit amin lysin và prolin được chuyển đổi thành hydroxyprolin và hydroxylysin. Quá trình "biến đổi thứ cấp" được thực hiện sau khi axit amin được xây dựng vào chuỗi protein.
Các axit amin này cần thiết để ổn định collagen chức năng. Protein bao gồm các sợi xoắn ốc nằm giữa các tế bào và được mạng lưới với nhau. Điều này đảm bảo rằng mô liên kết được cung cấp sự chắc chắn và đàn hồi. Điều quan trọng đối với cấu trúc chính của da, làm lành vết thương và sự phát triển của xương, sụn và răng. Hơn nữa, vitamin C thúc đẩy quá trình biến đổi của selen thành selen - một chất có nguồn gốc từ feritricytop (Fe3+ thành Fe2+). Quá trình truyền thông tuyến giáp giúp ghi lại quá trình chuyển đổi collagen trong fibroblast.
Thiếu vitamin C
Trong trường hợp ăn uống bình thường, không có sự thiếu hụt tuyệt đối về acid ascorbic ở người khỏe mạnh. Scorbut chỉ xảy ra nếu tiêu thụ dưới 10 mg hàng ngày trong nhiều tuần. Tuy nhiên, thiếu vitamin C (như tất cả các vi chất dinh dưỡng khác) là một bức tranh bệnh tật có cấp độ. Scorbut là giai đoạn cuối cùng trong quá trình phát triển, trong đó đã xảy ra tổn thương mô đã không thể phục hồi. Quá trình thiếu hụt có thể được chia thành 6 giai đoạn khác nhau.
- Giai đoạn: Dự trữ vitamin C trong tế bào giảm nhẹ, nhưng nồng độ trong huyết tương không đáng kể.
- Giai đoạn: Cơ thể đã bắt đầu giảm tiết vitamin C qua thận.
- Giai đoạn: Sự thiếu hụt vitamin C dẫn đến việc enzymatic chuyển hóa chất béo không diễn ra đúng mức. Tuy nhiên, không có triệu chứng lâm sàng của sự thiếu hụt.
- Giai đoạn: Nồng độ vitamin C nằm trong khoảng bình thường. Bây giờ các triệu chứng bắt đầu xuất hiện, thường không được xác định chính xác. Điều này bao gồm sự suy giảm hiệu suất, da mụn, đau nhức khớp, mạch máu tăng tốc, trầm cảm, bồn chồn và dễ bị nhiễm trùng.
- Giai đoạn: Các triệu chứng điển hình của thiếu vitamin hiển nhiên. Có xuất huyết, đặc biệt là chảy máu chân răng, việc lành tổn thương đau dữ dội và chảy máu cũng như tỉ lệ gãy xương gia tăng. Trẻ em cũng có thể gặp rối loạn tăng trưởng, đặc biệt là về xương. Trong giai đoạn này, việc sử dụng mức cao của vitamin C vẫn còn có thể tránh được tổn thương tiềm năng.
- Giai đoạn: Hư hỏng cơ thể không thể khắc phục đã xảy ra. Cuối cùng, scorbut đã xuất hiện.
Các giai đoạn 5 và 6 của việc thiếu vitamin C trong hầu hết các trường hợp là kết quả của một chế độ ăn không cân đối. Các giai đoạn 4 trước đó thường là sự kết hợp giữa chế độ ăn không đủ và các yếu tố rủi ro cá nhân. Điều này bao gồm một đường ruột bị tấn công, không thể tiếp thu chất dinh dưỡng đáng kể.
Cần phải xem xét các nguyên nhân, và điều trị bệnh gây ra như bệnh đường ruột. Ngoài việc tiêm vitamin hoặc dung dịch, việc cải thiện chế độ ăn cũng có thể giúp.
Cách dùng vitamin C - nhiều không phải lúc nào cũng tốt
Trong trường hợp cảm lạnh, huyết áp cao hoặc căng thẳng cao, việc dùng một số lượng lớn vitamin C có thể rất hữu ích. Vấn đề chỉ là cơ thể không thể lưu trữ một lượng lớn vitamin C cùng một lúc. Sự hiệu quả của protein vận chuyển ascorbic acid trong niêm mạc đường tiêu hóa cũng có giới hạn, vì lý do đó, dư thừa vitamin C sẽ bị tiêu thụ bởi ruột. Mọi thứ trên 200 mg sẽ bị lãng phí. Chỉ khi thiếu vitamin C, cơ thể sẽ hấp thụ một lượng lớn cùng một lúc, vì khả năng cung cấp dự trữ mở rộng được tăng.
Vì vậy, nếu bạn không có thiếu vitamin C cấp tính, bạn có thể vứt bỏ viên nén vitamin ngay xuống nhà vệ sinh và tránh cả các cơn đau bụng và tiêu chảy mà có thể xảy ra với liều lượng trên 500 mg.
Tuy nhiên, nếu bạn vẫn muốn dùng một số lượng lớn, hãy chia liều ra thành nhiều lần. Đặc biệt là trong trường hợp căng thẳng, nhiễm trùng hoặc huyết áp cao, các dự trữ vitamin C trong cơ thể sẽ nhanh chóng cạn kiệt.
Nếu bạn dùng từ bốn đến năm lần một ngày 200 mg vitamin C, bạn có thể nhanh chóng nạp lại các dự trữ mà không gây áp lực quá lớn cho cơ thể. Đối với việc sử dụng 8 gram vitamin C mỗi ngày, như đã được thực hiện trong một nghiên cứu, bạn sẽ cần dùng 40 liều mỗi ngày.
Tuy nhiên, bạn nên chỉ dùng liều lượng lớn như vậy trong vài ngày hoặc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ hoặc chuyên gia y tế tự nhiên.